6 phút đọc
3/9/2023
Bệnh Parkinson là gì?
Bệnh Parkinson là một chứng bệnh gây ảnh hưởng đến khả năng vận động. Khi bị bệnh, bạn có thể mất khả năng giữ thăng bằng và kiểm soát cơ bắp.
Bệnh do một bác sĩ người Anh, sống ở London mô tả lần đầu tiên vào năm 1817, ông tên là James Parkinson. Từ đó trở đi, người ta gọi bệnh này mang tên của ông.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 6,3 triệu người mắc bệnh này. Bệnh thường bắt đầu ở người trên 60 tuổi, tuy nhiên có khoảng 1/10 số bệnh nhân bị khởi bệnh trước 50 tuổi và rất hiếm khi có người khởi phát ở 30 tuổi.
Bệnh Parkinson gây trở ngại cho sinh hoạt và công việc hằng ngày của người bệnh, nhưng không phải là một bệnh nguy hiểm chết người. Bệnh tăng lên từ từ không ngừng, nhưng bằng cách dùng thuốc, đa số bệnh nhân vẫn duy trì được cuộc sống và công việc trong rất nhiều năm.
Hình ảnh. Bệnh Parkinson
Trong bệnh Parkinson, có một chất ở trong não gọi là Dopamin bị thiếu hụt. Đây là một chất dẫn truyền tín hiệu thần kinh từ tế bào này sang tế bào khác ở bên trong của não, nó giúp cho tế bào não chỉ huy và kiểm soát được các cử động của bắp thịt ở chân tay và ở mặt. Khi bị bệnh Parkinson, nhưng tế bào sản sinh ra chất Dopamin này bị suy thoái và chết dần. Điều này xảy ra ở một phần rất nhỏ của não gọi là chất đen (substantia nigra). Khi thiếu chất Dopamin, não không chỉ huy vận động cơ bắp được như bình thường, gây ra các triệu chứng như ở trên.
Nguyên nhân tại sao các tế bào não sản sinh ra Dopamin lại bị thoái hóa và chết đi, hiện nay khoa học vẫn chưa lý giải được. Người ta nghĩ tới nhiều yếu tố gây bệnh khác nhau như: do lớn tuổi, do di truyền, do các yếu tố môi trường, thậm chí do virus… Tuy nhiên cho tới nay khoa học cũng không giải thích được tại sao chỉ có một số người bị mắc bệnh Parkinson, còn những người khác thì lại không bị.
Triệu chứng thường gặp của bệnh Parkinson
Ở giai đoạn sớm các triệu chứng của bệnh Parkinson hay gặp có thể là: mệt mỏi, đau cơ, vụng về khi thực hiện các động tác đơn giản (đi tất, đi giày, tra chìa khóa…), rối loạn chữ viết (chữ viết nhỏ dần), táo bón, trầm cảm, kéo lê một chân hoặc giảm hoạt động một tay khi vận động, bong vảy da ở mặt, gối. Cũng có khi triệu chứng sớm là run khi nghỉ không liên tục, kín đáo.
Điển hình bệnh Parkinson biểu hiện bằng ba triệu chứng cơ bản là:
- Run thấy rõ ở ngọn chi, môi, lưỡi. Run thường khu trú ở một bên cơ thể trong nhiều năm đầu, run có thể tạm mất khi vận động, nhưng sau đó lại tái diễn, khi ngủ hết run, xúc động tăng run, tuy nhiên, có trường hợp hoàn toàn không run.
- Cứng đơ: là một trong các triệu chứng quan trọng nhất, chân tay cứng ở tất cả các nhóm cơ, đi lại khó, sờ nắn các cơ thấy chắc, cứng.
- Giảm vận động: mất các động tác tự nhiên của nét mặt, của chân tay, nhất là khi cử động. Mất vẻ biểu lộ tình cảm, nét mặt như người mang mặt nạ, ít chớp mắt.
- Các triệu chứng khác: thường có loạn cảm đau, đứng ngồi không yên, nóng bức, tăng tiết, phù, tím tái ngọn chi, rối loạn cương, hạ huyết áp tư thế, trầm cảm lo âu (khoảng 35 đến 40%), một số ít có thể có ảo thị, hoang tưởng, trí tuệ còn tốt, có thể gặp sa sút trí tuệ ở giai đoạn nặng…
Hình ảnh. Triệu chứng của bệnh Parkinson
Điều trị bệnh Parkinson
- Các nhóm thuốc điều trị bệnh Parkinson
Có nhiều nhóm thuốc điều trị Parkinson là nhóm ức chế choline (ví dụ: Artan, Trihex...) nhóm các thuốc kích thích trực tiếp các thụ thể dopamin (Sifrol, Trivastal), Các thuốc thay thế dopamine (levodopa) là thuốc bổ sung dopamine kịp thời và đúng cơ chế bệnh sinh (thuốc thường dùng là Madopar, Syndopa, Sinemet..) và các thuốc ức chế hủy dopamin (nhóm này hiện nay ít có trên thị trường Việt nam). Nếu dùng nhóm levodopa thì không nên kết hợp với vitamin B6.
Cách sử dụng: khởi đầu bằng liều thấp, tăng dần tới liều tác dụng và duy trì liều, nếu muốn thay thế thuốc khác phải thay thế dần dần, không dừng đột ngột.
Tác dụng không mong muốn: tùy nhóm thuốc mà có các tác dụng không mong muốn, tuy nhiên các biểu hiện hay gặp là: khô mắt, khô miệng, buồn ngủ, nhịp tim nhanh, dị ứng, hạ huyết áp tư thế, loạn nhịp tim, đau bụng, buồn nôn, khó tiêu, táo bón… liều cao có thể gây lú lẫn, ảo giác, kích động.
Ngoài các nhóm trên, có thể dùng thêm nhóm thuốc bảo vệ và dinh dưỡng thần kinh, nhóm này không đặc trưng cho bệnh Parkinson nhưng cũng có tác dụng theo cơ chế chống gốc tự do và dinh dưỡng thần kinh.
- Các phương pháp điều trị khác
Trong điều trị bệnh Parkinson, lựa chọn đầu tiên là điều trị bằng thuốc, các phương pháp khác chỉ sử dụng khi điều trị nội khoa ít kết quả. Gồm có các phương pháp sau: Phẫu thuật, kích thích não ở sâu, xạ phẫu... Điều trị bằng phục hồi chức năng, y học cổ truyền: tác dụng hạn chế, chưa có công bố các nghiên cứu.
Bệnh Parkinson là bệnh mạn tính tiến triển nặng dần, ngoài các tác dụng phụ của các thuốc điều trị ở trên còn gặp các tai biến, biến chứng.
Tai biến, biến chứng hay gặp
- Suy mòn, suy kiệt do chức năng đường ruột kém, bệnh nhân run nhiều mất năng lượng.
- Thiếu vitamin D nên dễ gây loãng xương do tình trạng ít vận động.
- Dễ bị ngã do mất thăng bằng, kết hợp với loãng xương vì vậy nguy cơ gãy xương cao, nhất là gãy cổ xương đùi.
- Bội nhiễm phổi hoặc viêm phổi nhất là giai đoạn nặng do bệnh nhân suy mòn kết hợp co cứng cơ nên mất khả năng ho khạc.
Lời khuyên cho bệnh nhân mắc Parkinson
- Nên cho bệnh nhân năng đi lại, đi chậm, bước dài chân, tập thở sâu, tắm nắng…ăn tăng cường dinh dưỡng, các thực phẩm dễ tiêu, giàu vitamin, nhất là vitamin D. Có các biện pháp hạn chế nhiễm trùng hô hấp như giữ ấm đường thở, tăng cường sức đề kháng. Phòng và tránh ngã để hạn chế nguy cơ gãy xương…
> Dấu hiệu nhận biết Zona thần kinh
Nguồn: Hội thần kinh học Việt Nam và Bệnh viện 108