5 phút đọc

3/31/2023

RỐI LOẠN NHỊP TRÊN THẤT

Nhịp thay đổi với các ổ phát nhịp khác nhau bắt nguồn từ trên thất (Thường khởi phát từ trong tâm nhĩ). Chẩn đoán bằng ECG. Đa số bệnh nhân không có triệu chứng và không cần điều trị.

Rối loạn nhịp thất | Vinmec

Rối loạn nhịp trên thất bao gồm:

- Ngoại tâm thu nhĩ

- Tim nhanh nhĩ

- Nhịp nhanh nhĩ đa ổ

- Nhịp nhanh bộ nối không kịch phát

- Nhịp nhĩ lang thang

Ngoại tâm thu nhĩ

Ngoại tâm thu nhĩ (APB/PAC) là dạng rối loạn nhịp thường gặp. Có thể xuất hiện ở người bình thường, có thể có hoặc không kèm theo các yếu tố thúc đẩy (ví dụ như cà phê, chè, rượu, giả ephedrine), ngoại tâm thu nhĩ cũng có thể là một biểu hiện của bệnh lý tim phổi. Chúng khá phổ biến ở bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD.) Thường hay biểu hiện với triệu chứng đánh trống ngực.

Chẩn đoán bằng điện tâm đồ.

APB có thể dẫn truyền từ nhĩ xuống thất bình thường, cũng có thể dẫn truyền lệch hướng, hoặc không dẫn truyền được xuống tâm thất, và thường có khoảng nghỉ bù không hoàn toàn theo sau. Ngoại tâm thu nhĩ dẫn truyền lệch hướng (thường có dạng block nhánh phải) cần phải chẩn đoán phân biệt với các ổ ngoại tâm thu bắt nguồn từ tâm thất.

Nhịp thoát nhĩ là nhịp nhĩ khởi phát sau một khoảng ngưng xoang dài. Có thể xuất hiện một hoặc nhiều nhịp; nhịp thoát khởi phát từ một ổ có thể kéo dài liên tục (được gọi là nhịp nhĩ ngoại lai). Nhịp tim thường chậm hơn, hình thái sóng P thường thay đổi, và khoảng PR có thể ngắn hơn một chút so với trong nhịp xoang.

Tim nhanh nhĩ

Nhịp nhanh nhĩ là một rối loạn nhịp đều bắt nguồn từ một ổ đơn độc tại tâm nhĩ phát nhịp nhanh và bền bỉ. Nhịp tim thường là 150-200 nhịp/phút; tuy nhiên, trong trường hợp tần số nhĩ rất nhanh, rối loạn chức năng của nút nhĩ thất, hoặc ngộ độc digitalis, dẫn tới tình trạng block NHĨ THẤT (AV), do đó tần số thất có thể sẽ chậm hơn. Các cơ chế bao gồm tăng tính tự động tâm NHĨ và vòng vào lại nội tâm nhĩ.

Nhịp nhanh nhĩ là tình trạng ít gặp nhất (5%) trong số các rối loạn nhịp nhanh trên thất và thường gặp ở bệnh nhân có bệnh tim cấu trúc. Các nguyên nhân khác bao gồm tâm nhĩ kích thích (ví dụ viêm màng ngoài tim), do thuốc (ví dụ digoxin), rượu và hít khí độc.

Triệu chứng là các triệu chứng của nhịp tim nhanh khác (ví dụ, chóng mặt, chóng mặt, đánh trống ngực, và hiếm khi ngất).

Chẩn đoán bằng điện tâm đồ (ECG); Sóng P, có hình thái khác với sóng P xoang bình thường, đi trước phức hợp QRS nhưng có thể ẩn trong sóng T đi trước.

Kích thích hệ phó giao cảm có thể làm giảm nhịp tim, qua đó có thể quan sát rõ ràng hơn sự hiện diện của sóng P mà trong lúc nhịp tim nhanh không quan sát được. Nghiệm pháp kích thích hệ phó giao cảm thường không cắt được cơn tim nhanh nhĩ do nút nhĩ thất không phải là một thành phần của vòng rối loạn nhịp.

Điều trị bao gồm điều trị nguyên nhân và làm giảm đáp ứng tần số thất bằng cách sử dụng thuốc chẹn beta hoặc thuốc chẹn kênh canxi. Có thể cắt cơn tim nhanh bằng cách shock điện chuyển nhịp. Thuốc cắt cơn và duy trì nhịp xoang là các thuốc chống loạn nhịp nhóm Ia, Ic, hoặc III. Nếu những biện pháp không xâm lấn này không có hiệu quả, có thể cần phải áp dụng phương pháp tạo nhịp vượt tần số và triệt đốt để cắt cơn.

Nhịp nhanh nhĩ đa ổ

Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (MAT) là một dạng rối loạn nhịp hoàn toàn do nhiều ổ tạo nhịp ngoại lai khác nhau tại tâm nhĩ phát nhịp ngẫu nhiên. Theo định nghĩa, nhịp tim > 100 nhịp/phút. Ngoại trừ tiêu chuẩn về tần số, các tiêu chuẩn chẩn đoán khác tương tự như trong chẩn đoán nhịp nhĩ lang thang. Triệu chứng biểu hiện khi nhịp tim rất nhanh. Nhịp nhanh NHĨ đa ổ (MAT) có thể gặp trong bệnh phổi như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhưng cũng có thể do bệnh tim như bệnh động mạch vành, và các bất thường điện giải như hạ kali máu. Điều trị hướng trực tiếp vào bệnh lý nền.

Nhịp nhanh bộ nối không kịch phát

Nhịp nhanh bộ nối không kịch phát thường do bất thường tính tự động của nút nhĩ thất hoặc mô vùng bộ nối, thường gặp sau phẫu thuật tim, nhồi máu cơ tim cấp vùng thành dưới, viêm cơ tim hoặc ngộ độc digitalis. Nhịp tim từ 60 đến 120 nhịp/phút; do đó thường ít khi có biểu hiện triệu chứng. Trên điện tâm đồ là nhịp đều, phức bộ QRS bình thường, không có sóng P hoặc có thể có sóng P dẫn ngược (P âm ở các chuyển đạo dưới) đi ngay trước (< 0,1 giây) hoặc ngay sau phức bộ QRS. Cần chẩn đoán phân biệt với cơn tim nhanh kịch phát trên thất, với khác biệt về tần số và cách thức khởi phát và cắt cơn từ từ. Điều trị theo nguyên nhân.

Nhịp nhĩ lang thang

Nhịp nhĩ lang thang (nhịp NHĨ đa ổ) là một dạng rối loạn nhịp hoàn toàn do nhiều ổ phát nhịp ngoại lai tại tâm nhĩ phát nhịp ngẫu nhiên. Theo định nghĩa, nhịp tim ≤ 100 nhịp/phút. Dạng rối loạn nhịp này thường xảy ra ở những bệnh nhân bị bệnh phổi và bị thiếu oxy, nhiễm toan, nhiễm độc theophylline, hoặc kết hợp. Trên ECG, xuất hiện nhiều hình thái sóng P khác nhau, và có ≥ 3 đặc điểm hình thái sóng P khác nhau. Dựa vào hình dạng sóng P để chẩn đoán phân biệt giữa nhịp nhĩ lang thang và rung nhĩ. Điều trị theo nguyên nhân.

#Tim mạch#Tài liệu y khoa
Bình luận