HEMOCHROMATOSIS di truyền là một rối loạn di truyền đặc trưng bởi sự tích tụ sắt quá nhiều (Fe) dẫn đến tổn thương mô. Chẩn đoán dựa vào tăng nồng độ ferritin, sắt huyết thanh, tăng độ bão hòa transferrin, và khẳng định bằng xét nghiệm gen.
Có 4 loại HEMOCHROMATOSIS di truyền, từ 1 đến 4, tùy thuộc vào gen bị đột biến.
+Loại 1: Đột biến gen HFE (cơ chế điều hòa sắt nội môi ở người)
+Loại 2 (bệnh hemochromatois vị thành niên): Đột biến ở gen HJV (đồng thụ thể hemojuvelin BMP) và HAMP (peptit kháng khuẩn hepcidin)
+Loại 3: Đột biến ở gen TFR2 (thụ thể transferrin 2)
+Loại 4 (bệnh ferroportin): Đột biến ở gen SLC40A1 (nhóm vận chuyển chất tan 40 thành viên 1)
Các rối loạn di truyền hiếm gặp hơn có thể gây ra tình trạng quá tải sắt tại gan, nhưng hình ảnh lâm sàng thường bị chi phối bởi các triệu chứng và dấu hiệu do suy cơ quan khác (ví dụ, thiếu máu giảm hoặc không có transferrin máu, hoặc các dị tật thần kinh do không có ceruloplasmin máu.
Mặc dù các loại bệnh này khác nhau rõ rệt về độ tuổi khởi phát, hậu quả lâm sàng của tình trạng thừa sắt là giống nhau ở tất cả các thể.
HEMOCHROMATOSIS do di truyền type 1
Type 1: là bệnh di truyền cổ điển, còn được gọi là HEMOCHROMATOSIS có liên quan đến HFE. Hơn 80% trường hợp là do đột biến đồng hợp tử C282Y hoặc đột biến dị hợp tử C282Y/H63D. Đột biến đồng hợp tử H63D hiếm khi xảy ra và có kiểu hình giống với trường hợp đồng hợp tử C282y. Rối loạn là gen lặn trên nhiễm sắc thể thường, với tần số đồng hợp tử là 1:200 và tần số dị hợp tử 1:8 ở người gốc Bắc Âu. Các đột biến C282Y và H63D không phổ biến ở những người có tổ tiên châu Phi và hiếm ở những người có tổ tiên châu Á. Trong số bệnh nhân có các đặc điểm lâm sàng của bệnh huyết sắc tố, 83% là đồng hợp tử. Tuy nhiên, vì các lý do không rõ, kiểu hình (lâm sàng) của dạng đồng hợp tử có tần xuất thấp (rất nhiều người đồng hợp tử không có biểu hiện lâm sàng).
HEMOCHROMATOSIS di truyền type 2
HEMOCHROMATOSIS di truyền type 2 (HEMOCHROMATOSIS vị thành niên) là rối loạn di truyền gen lặn trên nhiễm sắc thể thường do các đột biến trên gen HJV, là gen ảnh hưởng đến protein phiên mã hemojuvelin hoặc các đột biến trên gen HAMP là gen trực tiếp mã hóa cho hepcidin. Nó thường biểu hiện ở thanh thiếu niên.
HEMOCHROMATOSIS di truyền type 3
Các đột biến trên thụ thể transferrin 2 (TFR2) mã hóa một protein mà kiểm soát độ bão hòa của transferrin, là một dạng HEMOCHROMATOSIS hiếm gặp di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường.
HEMOCHROMATOSIS di truyền type 4
HEMOCHROMATOSIS di truyền type 4 (bệnh ferroportin) xảy ra chủ yếu ở người gốc Nam Âu. Nó là kết quả của một đột biến trội trên nhiễm sắc thể thường trong gen SLC40A1, là gen hưởng đến khả năng gắn ferroportin vào hepcidin.
Thiếu Transferrin và ceruloplasmin
Do thiếu transferrin (giảm hoặc không có transferrin), sắt hấp thụ vào hệ thống cửa mà không gán với transferrin nên sẽ lắng đọng trong gan. Cũng vì thiếu transferrin vận chuyển, nên sắt không thể được vận chuyển đến các vùng sản xuất hồng cầu.Trong sự thiếu hụt ceruloplasmin (aceruloplasminemia), thiếu ferroxidase để chuyển đổi Fe2+ đến Fe3+; là điều kiện để sắt có thể gắn với transferrin. Do không thể gắn với transferrin nên sắt không thể được vận chuyển từ dự trữ nội bào để vào huyết tương, do đó gây ra tích tụ sắt.